thực trạng tiếng anh ở việt nam
TAM, Nguyen Thi Minh; HONG, Nguyen Dieu; LONG, Tran Thi. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TIẾNG ANH TRONG CÁC BIỂN HƯỚNG DẪN DU LỊCH TẠI MỘT SỐ ĐIỂM DU LỊCH Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM. VNU Journal of Foreign Studies, [S.l.], v. 33, n. 2, mar. 2017. ISSN 2525-2445.
Video: Sau nghi vấn chia tay, Trương Ngọc Ánh ở bên tình trẻ kém 14 tuổi, tình trạng hiện tại gây xôn xao. Video: Sau nghi vấn chia tay, Trương Ngọc Ánh ở bên tình trẻ kém 14 tuổi, làm rõ lý do Hari Won đi Hàn Quốc suốt một thời gian dài không về Việt Nam. 03:26.
Thương hiệu: BOMETA Xuất xứ: VIỆT NAM Hạn sử dụng: 36 tháng (Xem trên nhãn sản phẩm) Hotline: 0986 230 346 Dùng cho người có thể trạng yếu cần tăng cường hệ miễn dịch, bồi bổ sức khoẻ. Người đau, viêm loét dạ dày, đại tràng kém. Người bị viêm họng, viêm amidan, khàn tiếng. Những người thường gặp các
Hướng Dẫn Thực Hiện Chuẩn Kiến Thức, Kĩ Năng Các Môn Học Ở Tiểu Học Lớp 4 - Nhiều Tác Giả, 163 Trang 15/07/2017; Đạo Đức 4 (NXB Giáo Dục 2016) - Lưu Thu Thủy, 43 Trang 03/07/2017; Học Và Thực Hành Tiếng Anh Tiểu Học 4 (NXB Đại Học Quốc Gia 2006) - Nguyễn Hữu Dự, 126 Trang 06
Nghiên cứu tình trạng suy dinh dưỡng và nồng độ leptin huyết thanh ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ và lọc màng bụng liên tục ngoại trú DẠY TỪ VỰNG CHO HỌC SINH NHỎ TUỔI: NHẬN THỨC VÀ THỰC HÀNH CỦA GIÁO VIÊN VIỆT NAM DẠY TIẾNG ANH Ở BẬC TIỂU HỌC Tuyển sinh Đề cương môn thi tuyển cao học CHỦ NGHĨA DUY VẬT
Les Sites De Rencontres Gratuit Sans Inscription. 12 Tháng Một 2021Nội dung chính Show Thực trạng về tiếng Anh của sinh viên Việt hiện nayTiếng Anh giao tiếp ở sinh viên có thực sự tốt?Bị “hẫng” khi giao tiếp bằng tiếng AnhBị “đuối” khi học tiếng Anh giao tiếp thực tếChủ động trong việc học tiếng Anh là điều sinh viên nên làmCách chọn trung tâm tiếng Anh cho sinh viênVideo liên quan Trong xu thế hội nhập như hiện nay, tiếng Anh ngày càng trở nên quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt đối với sinh viên là thế hệ nòng cốt tương lai của xã hội, ngoài các kiến thức chuyên môn thì việc trang bị thật tốt tiếng Anh là điều vô cùng cần thiết. Hãy là công dân có ích và phát triển tương lai cá nhân cũng như đất nước, đừng để tiếng Anh trở thành rào cản của chính mình bạn nhé. Cùng YOLA tìm hiểu về thực trạng hiện nay và trung tâm tiếng Anh cho sinh viên uy tín trong bài viết thêmThực trạng về tiếng Anh của sinh viên Việt hiện nayThực trạng đáng lo ngại nhất ở đa phần sinh viên Việt hiện nay là đều thiếu kiến thức tiếng Anh cơ bản. Tiếng Anh của sinh viên còn quá “đuối” và cần có phương pháp để khắc phục tạo hứng khởi cho việc như hiện nay tiếng Anh đã phổ cập đến hầu hết mọi lứa tuổi thì không có lý do gì sinh viên lại không nắm vững thứ ngôn ngữ này. Tuy nhiên, điều đáng báo động hiện nay lại hoàn toàn ngược lại, theo thống kê thì có khá nhiều sinh viên đã tìm đến các trung tâm tiếng Anh. Sau bài test đầu vào mới thấy được kiến thức tiếng Anh của sinh viên gần như hổng hết, mất cơ Anh giao tiếp ở sinh viên có thực sự tốt?Thực tế cho thấy, khi học tiếng Anh cho sinh viên tại trường học, họ được đào tạo rất kỹ về ngữ pháp, văn viết có thể rất tốt nhưng lại không thể áp dụng được vào thực tế, trong những tình huống cụ thể. Hay nói cách khác là bị “hẫng” tiếng Anh giao tiếp ngoài đời thường. Để khắc phục được điều này cần phải có phương pháp học cụ thể như học tiếng Anh giao tiếp với người nước ngoài, học tiếng Anh cùng Tây hay thậm chí học tiếng Anh khi đi du lịch. Mọi lúc mọi nơi, sinh viên hãy cố gắng trau dồi kiến thức tiếng Anh giao tiếp đi “hẫng” khi giao tiếp bằng tiếng AnhTừ khi hội nhập kinh tế, nước ta đã có rất nhiều tập đoàn, công ty nước ngoài đầu tư, mở rộng thị trường. Để khẳng định được năng lực của bản thân trong công việc thì tiếng Anh dường như trở thành một thứ công cụ hỗ trợ không thể thiếu. Tiếng Anh cho sinh viên cũng trở nên rất quan trọng nếu như họ muốn có một công việc ổn định sau khi ra trường. Tuy nhiên, trong khi có những sinh viên đã tìm được việc làm ở những công ty lớn thì vẫn còn không ít bạn đang vùng vẫy trong vũng lầy tìm việc chỉ bởi vốn từ tiếng Anh còn yếu kém, không thể giao tiếp bằng tiếng Anh mặc dù được học rất nhiều trên ghế nhà “đuối” khi học tiếng Anh giao tiếp thực tếKhi bắt đầu học Tiếng Anh sinh viên cần phải chú trọng đến việc lắng nghe trước, tập trung bắt chước, nói sau đó mới học viết và đọc. Quy trình nghe có vẻ giống như một đứa trẻ vậy, chúng học nói trước sau đó mới học chữ sau. Đây có lẽ cũng chính là quy trình học tiếng Anh chuẩn nhất, tuy nhiên tiếng Anh cho sinh viên hiện nay thường đi ngược lại, các bạn thường tập trung nhiều hơn vào ngữ pháp sau đó mới đến kỹ năng thể bạn viết rất lưu loát nhưng khi đối diện với người nước ngoài hay chỉ đứng trước giáo viên tiếng Anh thôi, đặt trong tình huống cụ thể sẽ không biết cách xử lý như thế nào cho chuẩn xác, ấp úng và không thể trình bày. Đây cũng được cho là lý do mà nhiều bạn sinh viên sau khi ra trường đã bỏ lỡ nhiều công việc tốt trong môi trường làm việc quốc động trong việc học tiếng Anh là điều sinh viên nên làmCần thay đổi lối mòn về phương pháp học, quan điểm học tiếng Anh hiện tại sẽ giúp nâng cao trình độ của sinh viên một cách nhanh chóng. Hơn thế nữa, khi học tiếng Anh sinh viên cần đặt mình vào mục tiêu chính là phát triển ngôn ngữ để chủ động hơn trong việc học và quá trình giao ngại, đừng trốn tránh, đừng cảm thấy tự ti khi bản thân mình nói tiếng Anh còn sai, phát âm chưa chuẩn hay mất nhiều thời gian để trả lời câu hỏi của người đối diện. Bạn cần phải tự tin, cố gắng luyện tập tăng cường khả năng phản xạ, hãy nói nhiều lên để khắc phục tính sợ tiếng Anh chọn trung tâm tiếng Anh cho sinh viênHiện nay có vô vàn phương pháp và địa chỉ học tiếng Anh nhưng để đảm bảo yếu tố phù hợp với bản thân không phải là lựa chọn dễ dàng. Bạn có thể học online trên internet như youtube, các trang web hay học nhóm, tham gia câu lạc bộ,… Tuy nhiên, để có động lực học tốt nhất, nhanh chóng, lộ trình học cụ thể thì trung tâm Anh ngữ vẫn là nơi mà nhiều bạn tìm chọn được trung tâm tiếng Anh uy tín dành cho sinh viên uy tín và chất lượng, bạn cần chú ý các tiêu chí nhưChất lượng giáo viên Giáo viên cần có chứng chỉ, bằng cấp giảng dạy. Đồng thời ưu tiên những trung tâm Anh ngữ cho sinh viên có giáo viên dày dặn kinh nghiệm giảng trình học phù hợp với trình độ và nhu cầu của bản thức học đa dạng, linh gian phòng học rộng rãi, thông thoáng, đầy đủ các thiết bị hỗ trợ cho việc học tập của học viên và giảng dạy của giáo lượng học viên trong lớp phù hợp, không quá đông để giáo viên có thể nắm rõ được trình độ của phí phù hợp với “túi tiền” hiện tại và tương xứng với chất lượng giảng tâm Anh ngữ YOLA được thành lập từ năm 2009 với hơn 10 năm kinh nghiệm giảng dạy tiếng Anh cho nhiều thế hệ học viên từ trẻ mầm non đến khóa học dành cho người lớn. Với quan điểm “trong mỗi con người đều tồn tại những điểm mạnh nhất định và lý tưởng”, sứ mệnh của YOLA chính là giúp các bạn trẻ khai phóng điểm mạnh và sử dụng tối đa khả năng của mình để theo đuổi định hướng tương lai. YOLA là một trong những trung tâm tiếng Anh tốt nhất dành cho sinh viên. Đây cũng chính là lý do mà YOLA luôn nằm trong Top trung tâm tiếng anh uy tín chất lượng nhất Việt Nam năm 2021 theo đánh giá, thống kê phân tích các chỉ số website uy tín từ Nextop Digital – khóa học tiếng Anh cho người lớn giúp các bạn sinh viên có thêm nhiều kiến thức và kỹ năng cốt yếu cho nền tảng tiếng Anh vững chắc, hữu ích cho quá trình học tập và làm việc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đồng thời học viên còn được nâng cao khả năng giao tiếp, tư duy phản biện và dần làm quen với chiến thuật thi đã sở hữu vốn tiếng Anh kha khá, bạn có thể tham gia các khóa học luyện thi IELTS, TOEFL,… tại YOLA cho nhu cầu chinh phục chứng chỉ tiếng Anh quốc khóa học tại YOLA đều cam kết đầu ra cho các học viên và bài test đầu vào để đưa ra lộ trình học phù hợp nhất. Chần chừ gì mà không gọi ngay đến Hotline của chúng tôi hoặc để lại thông tin trong bảng dưới đây và sẽ có nhân viên tư vấn liên hệ sớm nhất cho bạn. Tóm tắt nội dung tài liệu A- ĐẶT VẤN ĐỀ I-LỜI MỞ ĐẦU -Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước của chúng ta ngày nay, mọi người ai ai cũng muốn góp phần mình vào sự nghiệp đổi mới đất nước, đưa đất nước hoà nhập với thế giới trên mọi lĩnh vực Văn hoá- Kinh tế- Chính trị- Thể thao... Đặc biệt ngày nay với một nền công nghệ thông tin chiếm lĩnh trên toàn thế giới cũng như việc cần thiết nghiên cứu tài liệu nước ngoài, thì việc trang bị cho những kiến thức về ngôn ngữ chung của thế giới là vô cùng cấp thiết đối với mỗi con người chúng ta. Trước những yêu cầu cấp thiết đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định "Giáo dục là quốc sách hàng đầu" và đưa môn Tiếng Anh vào dạy ở trường học như một ngôn ngữ tất yếu bắt buộc- Một ngôn ngữ chung của thế giới để giao tiếp, đưa mọi người đến gần nhau hơn. -Hoà chung với không khí phát triển không ngừng của đất nước, thầy - trò trường THCS Yên Bái ra sức thi đua dạy tốt, học tốt để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của xã hội ở tất cả các bộ môn trong khuôn khổ giáo dục phổ thông. Bộ môn Tiếng Anh là một bộ môn mới nhưng rất được cấp trên chú ý tới. Người ta thường nói " Biết thêm một ngôn ngữ là hiểu thêm được một nền văn minh". Chính vì vậy mà thầy- trò trường THCS Yên Bái xác định đó là bộ môn cơ bản trong giáo dục ở nhà trường. -Về bộ môn Tiếng Anh có rất nhiều vấn đề cần được đề cập đến. Tuy nhiên ở đây tôi thiết nghĩ chúng ta cần quan tâm đến bước đầu các em bắt đầu học Tiếng Anh ở lớp 6. Chúng ta cần dạy cho các em một kỹ năng học ngoại ngữ tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các em học cao hơn, rộng hơn. 1 II-THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH HIỆN NAY Ở TRƯỜNG THCS. 1- Thực trạng Thuận lợi. -Vi ệ c d ạ y và họ c Ti ế ng Anh hi ệ n nay đ ượ c sự quan tâm và ch ỉ đ ạ o c ủ a ngành. -Ti ế ng Anh là ngôn ngữ ph ổ thông c ủ a th ế gi ớ i nên h ọ c sinh có ý thứ c họ c h ỏ i. -Đây là môn học mới nên học sinh rất thích học. -Tiếng Anh là ngôn ngữ viết bằng chữ La tinh nên có cùng hình thức chữ viết của Tiếng Việt, tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng tiếp cận được. -Tài liệu tham khảo rất phong phú. Khó khăn -Tiếng Anh là ngôn ngữ có âm gió nên học sinh gặp khó khăn trong việc phát âm. -Cơ sở vật chất ở địa phương còn nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu giảng dạy của bộ môn này như Băng, đài, máy chiếu, tranh ảnh.... -Chưa có phòng chức năng dành cho môn học này. -Học sinh ở lớp 6 nhiều em mải chơi, chưa say mê học tập, hay làm việc riêng trong giờ. -Các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. - Tiếng Anh là môn học khó, phải học thuộc lòng từ vựng, cấu trúc câu và ngữ pháp, học sinh rết dễ quên. -Học sinh chưa có nhiều thời gian thực hành trên lớp vì bài học quá dài. 2 -Cán bộ giáo viên chưa có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài để mở rộng vốn từ và phát âm chuẩn hơn. Thực tế thường thấy với một số tiết học thì công việc của thầy và trò là Học sinh chuẩn bị trước từ mới, thầy thuyết minh, học sinh ghi chép và lặp lại. Sau đó giáo viên nhận xét rồi đưa ra câu trả lời đúng cho học sinh thực hành. Cách tổ chức này thực tế tôi thấy chỉ có 25%-30% học sinh suy nghĩ và làm việc tích cực. Học sinh cũng chỉ ghi chép bài trên bảng và lắng nghe một cách thụ động, máy móc. Một số học sinh khác thì coi như không biết gì. Như vậy hiệu quả đào tạo rất thấp, học sinh khá giỏi thì cứ giỏi, còn học sinh yếu kém thì vẫn mãi không tiến bộ được, hơn nữa lớp học thì rất ồn, học sinh mất tập trung. Với suy nghĩ như trên, hai năm nay tôi đã suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu tài liệu và thông qua những giờ dạy thực tế trên lớp để cố gắng tìm ra một phương pháp quản lý lớp học và đặc biệt là lớp 6 mới bắt đầu làm quen với Tiếng Anh. Để thu hút được 100% học sinh tham gia vào bài học một cách chủ động, sinh động hơn và các tác động tích cực hơn đến học sinh, cũng như gây hứng thú cho học sinh mỗi lần đến tiết Anh Văn. Giúp học sinh xoá bỏ cảm giác ngại khi học Tiếng Anh và giáo viên có thể nắm bắt được mọi hoạt động của học sinh nhằm giúp cả lớp tập trung hướng vào bài học, để thực hành chính xác hơn. Sau đây là một vài suy nghĩ của tôi về " Cách quản lý tốt tiết dạy Tiếng Anh mà tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy. Cách quản lý tốt tiết dạy Tiếng Anh thực chất đó là cách thu hút học sinh vào bài học". Qua thực tế tôi thấy kết quả đạt được tương đối khả quan, học sinh hiểu bài, có kỹ năng vận dụng từ mới, ngữ pháp và giao tiếp, học sinh có kỹ năng thực hành tốt. Đặc biệt là thu hút tất cả các em vào bài học, gây cho học sinh hứng thú học Tiếng Anh và dần dần yêu thích môn Tiếng Anh. Kết quả khả quan nhất là tôi đã dùng phương pháp này trong tiết thao giảng đợt thi giáo viên giỏi trường vừa qua đạt kết quả tốt. 3 2- Kết quả, hiệu quả của thực trạng. Từ thực trạng trên, để công việ đạt hiệu quả tốt hơn, tôi mạnh dạn trình bày những việc làm thực tế của mình trước đồng nghiệp, để trao đổi học tập lẫn nhau, không ngừng nâng cao tay nghề. Rất mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn ! B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ *Phần giải quyết vấn đề gồm có 2 phần Các biện pháp tổ chức thực hiện và tìm ra giải pháp. 1- Các biện pháp tổ chức thực hiện Nhận thức được vấn đề làm thế nào để nâng cao hiệu quả đào tạo bằng cách quản lý lớp tốt và thu hút học sinh vào bài dạy ở lớp 6 và đạt kết quả rất khả quan. Đầu tiên tôi khảo sát lớp 6D bài tập 12 phần A tiết 73 "what are you doing? " Tôi đưa ra phương pháp dạy đơn thuần là yêu cầu học sinh lắng nghe và đọc lại. Sau đó giải thích từ mới và cấu trúc, yêu cầu học sinh dịch và làm bài tập tương tự, tôi tiếp tục phát phiếu bài tập cho học sinh để kiểm tra khả năng hiểu bài của các em. Câu 1 use the verbs in the present progressive or present simple tense. 1. Nga play tennis now. 2. we swim at the moment 3. what you always do in the morning ? 4. Mary and I do aerobics 5. what he do now ? 6. she jog every afternoon. 4 Câu 2 look at the pictures and say what they are doing ? Câu 3 write new words in AI Kết quả đạt được như sau 0-2,5 đ 3-4,5 đ 5-6,5đ 7-8,5 đ 9-10 đ 5↑ Lớ Tổng Số Số Số Số Số Số p % % % % % % bài bài bài bài bài bài 6D 40 5 13% 15 37% 14 35% 4 10% 2 5% 20 50% Từ kết quả bài tập trên chỉ có 50% học sinh nắm được bài, nhưng chưa chắc chắn và sâu sắc, kỹ năng thực hành giao tiếp của các em còn kém. Cũng bài học đó, tiết học đó tôi áp dụng ở lớp 6C. Điều tiên, tôi xác định mục đích của bài là Dạy cho các em thực hành giao tiếp thông qua cấu trúc ở thì hiện tại tiếp diễn và thì hiện tại đơn. -Thì HTTD S + tobe + V-ing -Thì HT đơn S + V/V-s, es -Với câu hỏi what + tobe + S + V - ing ? which sport + do/ does + S + play ? Học sinh dùng các câu hỏi và mẫu câu trên để nói về sức khoẻ hoặc một số tình huống làm cho lớp phấn chấn trước khi học bài. Tôi quan sát nhanh về phía lớp như muốn nhắc nhở mốtố em còn chưa chú ý, sau đó tôi kiểm tra bài cũ Thì hiện tại tiếp diễn học sinh đã học ở bài 8 nên tôi kiểm tra luôn ở thì này, nhằm giúp các em có kiến thức đã học liên quan đến kiến thức ở bài mới. 5 Câu hỏi như sau Dùng từ gợi ý viết thành câu hoàn chỉnh. 1. I/ playing/ video games/ am. 2. she/ riding/ bike/ her / is. Hai bài tập này học sinh lớp 6C đều làm được. Khi hai học sinh lên bảng làm, tôi bắt đầu kiểm tra vở bài tập của các em ở dưới lớp và hỏi câu hỏi tự do, yêu cầu các em trả lời từ dễ đến khó. 1. what are you doing now ? 2. what is your mother doing now ? 3. what color do you want ? 4. how do you go to school ? 5. where does your sister live ? -Yêu cầu học sinh trả lời và thực hành với bạn bên cạnh, những học sinh khác chưa được trả lời thì lắng nghe sau đó kể lại, hoặc nhận xét bài làm của bạn mình. -Với một loạt câu hỏi từ dễ đến khó đã thu hút cả lớp vào yêu cầu của giáo viên. -Phần giới thiệu ngữ liệu mới, tôi yêu cầu cả lớp chú ý và dùng tranh ảnh để yêu cầu học sinh đoán nghĩa của từ Ví dụ muốn giới thiệu từ "swim" tôi đưa ra một bức tranh có hình người đang bơi, hoặc giới thiệu từ "badminton" bằng tranh có hình người đang chơi cầu lông. -Cách dùng tranh ảnh này thu hút học sinh lớp 6C vào bài rất nhanh, các em đoán nghĩa từ và ghi nhớ rất lâu. -Sau đó tôi yêu cầu học sinh cả lớp chú ý vào sách và đưa ra cấu trúc mới bằng tranh ảnh, cử chỉ tôi giới thiệu từ mới kèm theo cấu trúc. Tôi phân nhóm hoặc phân cặp cho các em thực hành mẫu câu, học sinh lớp 6 rất thích 6 được đóng vai nên các em rất hăng hái, cho mỗi học sinh thực hành trước lớp ít nhất một lần. -Khi các em đã nghe băng và thực hành tốt thì tôi yêu cầu các em làm bài tập theo phiếu. Câu 1 Sửa lỗi các câu sau `1. he is swim. 2. they are play badminton 3. what they are doing ? 4. what sport do she play ? Câu 2 Sắp xếp lại các chữ cái để thành một từ có nghĩa. 1. eabiser 2. bdatomnin 3. tnnise tbela 4. Hycbolvl Sau đó toio đưa ra đáp án đúng. -Tôi yêu cầu cả lớp làm bài tập, các em sẽ không còn thời gian để làm việc riêng hay nói chuyện. -Tôi yêu cầu học sinh hỏi và trả lời về chính các em và những người thân, bạn bè của các em, đề tài thật gần gũi với các em, làm cho học sinh vừa ôn được từ vựng đã học ở những bài trước, vừa nhớ lâu hơn từ mới trong bài này. -Trong khi luyện tập, tôi luôn luôn chú ý đến mọi đối tượng học sinh và lôi cuốn các em vào bài học, lớp học sôi nổi, không có học sinh làm việc riêng, trong khi thực hành tôi luôn chú ý sửa sai cho học sinh. 7 Kết thúc tiết học, tôi cũng đưa ra bài tập kiểm tra giống như ở lớp 6D, kết quả thật bất ngờ như sau 0-2,5 đ 3-4,5 đ 5-6,5đ 7-8,5 đ 9-10 đ 5↑ Lớ Tổng Số Số Số Số Số Số p % % % % % % bài bài bài bài bài bài 6C 40 0 0% 0 0% 8 20% 22 55% 10 25% 40 100% Tiết học 73 ở lớp 6C vừa đạt kết quả cao, vừa rất sôi nổi, nghiêm túc, mọi học sinh được làm việc, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, còn học sinh là người chủ động tiếp thu kiến thức, học sinh thì bị tôi cuốn vào bài học một cách nhẹ nhàng. -Một vài học sinh yếu kém luôn được tôi chú ý, phân loại bài tập phù hợp. Học sinh đã chú ý vào bài, trong giờ học, tôi luôn luôn phân nhóm để học sinh làm việc các em thi đua nhau giữa các nhóm và cùng nhau tiến bộ. -Điều tôi rất mừng là học sinh đã phát triển được kỹ năng giao tiếp, các em đã mạnh dạn hơn trước. Để rõ ràng hơn, tôi đã khảo sát trực tiếp ở giờ thao giảng giáo viên giỏi tuyến trường. *Tiết 85-Bài 14 Making plan A vacation destinations A4; A5 Khi vào lớp, tôi cũng băn khoăn, lần đầu tiên trên lớp 6A học sinh chưa quen, song tôi cũng tự tin rằng Với phương pháp thu hút học sinh vào bài như tôi đã trình bày trên, tôi tin rằng giờ dạy sẽ đạt kết quả cao. -Để tạo không khí vui vẻ, tôi tạo ra các tình huống đơn giản nhưng các em rất phấn khởi, tạo điều kiện cho các em có cảm giác gần gũi với giáo viên, với phong cách nhẹ nhàng, nghiêm túc làm cho học sinh vững tin hơn. 8 -Phần kiểm tra bài cũ Bởi vì đơn vị kiến thức ở thì tương lai gần + các từ để hỏi như how long ; where ; what, học sinh đã học mà những từ này lại liên quan đến bài mới, tôi yêu cầu học sinh đặt câu hỏi cho những câu trả lời sau 1. I am going to visit HaLong Bay. 2. they are going to stay in Hue for two days. Hai học sinh lên bảng làm bài tập. 1. where are you going to visit ? 2. how long are they going to stay in Hue? ở dưới lớp tôi yêu cầu học sinh chú ý nghe câu hỏi và trả lời. 1. what are you going to do in your vacation ? 2. where are you going to visit ? 3. how long is he going to stay in HaNoi ? Tôi yêu cầu học sinh thực hành tương tự. -Khi học sinh lên bảng làm xong, tôi yêu cầu học sinh sửa bài của bạn và sau đó đưa ra đáp án đúng. -Vào bài mới, tôi xác định được mục đích của tiết 85 là Thông qua thực hành giới thiệu các trạng từ mang tính chất liên kết các hành động như là first, next, then, after that, finally. Sau đó luyện tập cho các em thì tương lai gàn với các từ để hỏi. how long, what, where. Khi xác định rõ mục đích của bài, tôi hướng dẫn học sinh vào hoạt động nhằm nổi bật các ngữ liệu mới đó. 9 -Học sinh nghe băng và tìm ra từ mới. Phần giới thiệu các từ chuyển tiếp, tôi đưa ra một bảng phụ có các hoạt động của học sinh vào buổi sáng và yêu cầu các em sắp xếp laị thứ tự. 1. I brush my teeth , clean my face 2. I go to school 3. I have breakfast 4. I take morning exercises. 5. I get up at Hành động nào ở số một, tôi cho từ đứng trước là "First", đứng trước hành động thứ hai tôi điền từ "then", tiếp theo tôi viết từ "next", hoạt động nào tiếp theo nữa tôi điền "after that" và cuối cùng là từ "finally" sau đó tôi yêu cầu học sinh kể lại hoạt động của bạn học sinh trên. Adverbs Activites First I get up at Then I take morning excercises Next to I brush my teeth, clean my face After that I have breakfast Finally I go to school Như vậy Thông qua hoạt động của một học sinh vào buổi sáng sớm, tôi đã giới thiệu được các liên từ cần dạy, qua bảng học sinh nhớ rất lâu. -Trong khi học sinh làm bài tập, tôi quan sát và yêu cầu cả lớp làm việc, để cho mỗi học sinh kể lại xem các công việc của mình vào buổi tối bằng các từ vừa học, sau đó đọc trước lớp. -Tôi yêu cầu học sinh nghe lại băng và lưu ý cách đọc của người Anh vào một số từ khó, học sinh lắng nghe băng chăm chú. 10 -Thông qua phần giới thiệu ngữ liệu mới, tôi đã giới thiệu luôn cho các em về phong cảnh Việt Nam -Tôi phân nhóm cho học sinh làm bài tập và yêu cầu học sinh đọc lại bài tập phần A4, tôi chú ý gọi nhiều đối tượng học sinh và sửa sai cho các em . Sau bài học tôi đưa ra câu hỏi dùng true or False. 1 ............... First, Mai and Phuong are going to visit HaLong Bay. 2................ Then, they are going to visit NhaTrang beach. 3. .............. they are going to stay in HaLong Bay for two days. 4................ Finally, they are going to visit Hue Citadel 5................ they are going to stay with their friends in HCM city. 6................ they are going to stay in NhaTrang for three days. Tôi yêu cầu học sinh suy nghĩ và làm theo nhóm, nhóm nào làm nhanh nhất thì cho lêng bản điền True or False, cả lớp thi nhau làm nhanh để được lên bảng. Cuối cùng tôi đưa ra đáp án đúng 1T; 2F; 3T; 4F; 5F ; 6F. Phần kiểm tra sự hiểu biết về các trạng từ liên két, cũng như đánh giá về sự hiểu biết của học sinh. Tôi đã chuẩn bị tranh, ảnh về các nơi mà bạn phương và bạn Mai đi thăm, những trạng từ first, then,... tôi viết chữ mầu đỏ, còn các hành động tôi viết mầu đen, tôi yêu cầu học sinh lên bảng dùng các bì có sẵn chữ ghép vào tranh và yêu cầu học sinh sắp xếp lại hành động của hai bạn theo đúng cuộc hành trình. Phần này học sinh làm rất tốt. Phần A5 Tôi phát phiếu cho các lớp lập bản. How Adverbs places Where to stay Activity long 11 Firsi HaLong With uncle and aunt 2 days Visit HaLong bay Then HaNoi Hotel 3 days See NgocSon Temple Next to Hue Friend' s house 2 days See the citadel After that NhaTrang Friend' s house 3 days Go to NhaTrang beach finally Ho Chi Minh city Grandparents A week Visit grandparents Sau khi cả lớp đã lập bảng, tôi yêu cầu học sinh hỏi và trả lời theo bảng, dùng hệ thống câu hỏi what, where; how long. 1. which place are they going to visit, first ? -they are going to visit HaLong. 2. where are they going to stay in HaLong ? -they are going to stay with their uncle and aunt. 3. how long are they going to stay in HaLong ? -they are going to stay there for three days. are they going to do? -they are going to visit Ha Long Bay. Sau đó tôi yêu cầu học sinh thực hành từng đôi một Hỏi và trả lời theo bảng, học sinh thực hành rất tốt. Điều này tôi thấy tất cả các học sinh đều được thực hành. Tiếp đó, tôi cho các em thực hành hỏi và đáp bằng chính các hoạt động của các em cho kỳ hè tới. Học sinh lập ra một kế hoạch cho mình trong kỳ nghỉ Kết quả như sau Học sinh khá giỏi thì viết về kế hoạch rất phong phú, còn học sinh yếu và trung bình thì kể về kỳ nghỉ đơn giản hơn. 12 -Trong giờ học tôi luôn chú ý tới học sinh yếu kém để sửa lỗi cho các em, cũng như có những câu hỏi phù hợp với các em. -Thời gian trong giờ học tôi phân chia hợp lý, điều này được ban giám khảo đánh giá rất cao. -Phần củng cố bài Tôi gọi hai học sinh trình bày nội dung đã học, sau đó gọi học sinh khác nhắc lại. -Tôi yêu cầu các em lập kế hoạch cho ngày nghỉ cuối tuần khi về nhà. Cuối giờ còn 3 phút tôi cho học sinh chơi trò chơi "survey" P1 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay. P2 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay, and Ha Noi. P3 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay, Ha Noi, and HCM city. P4 On my vacation, I am going to visit Ha Long Bay, Ha Noi, HCM city and Nha Trang... Tiết học trôi qua rất nhanh, học sinh được làm việc nhiều. Tất cả đối tượng học sinh đều hiểu bài và rất chú ý vào bài. Với phương pháp áp dụng vào tiết này, bài này được ban giám khảo đánh giá cao. Một giờ thao giảng tuy còn thiếu sót, song cái đạt được rất lớn đó là Học sinh được thực hành nhiều, giáo viên có phương pháp tốt để quản lý lớp, thu hút các em vào bài học. Tuy vậy, dù tiết học này có thành công chăng nữa thì bao giờ sau các tiết học tôi cũng như các đồng nghiệp khác lại rút thêm được những kinh nghiệm mới cho bản thân, mỗi tiết dạy tiếp theo. 2- Những giải pháp . 13 Từ những thực tiễn trên tôi đã rút ra những giải pháp cho cách quản lý tốt giờ dạy và học Tiếng Anh lớp 6 như sau Đối với thầy. Theo tôi nghĩ, giáo viên cần nắm vững phần ngữ liệu mới, đó là từ mới và ngữ pháp thật chắc, cần khắc sâu những đơn vị kiến thức nào mà học sinh cần rèn luyện. Muốn quản lý được lớp học tốt ở lớp 6 không phải là chuyện dễ, vì vậy tôi nghĩ phải có phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh và tôi đã phân loại đối tượng học sinh tuỳ theo mức độ tiếp thu của học sinh để chọn hệ thống câu hỏi phù hợp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thể loại bài tập phải đa dạng và phong phú. -Bài tập được dành cho mọi đối tượng học sinh , kể cả học sinh giỏi và học sinh yếu kém, nếu không học sinh yếu kém rất dễ chán. -Hệ thống bài tập được lựa chọn một cách cẩn thận, chặt chẽ, gần gũi với đời sống các em học sinh, bám sát mục tiêu dạy ở lớp 6. -Những tình huống đưa ra tôi đã có sẵn phương án giải quyết tình huốn đó một cách phù hợp với mục đích giao tiếp. -Tôi nghĩ cần tạo cho học sinh một thói quen thực hành trước lớp để thể hiện được thái độ của ngươì giao tiếp, thông qua các tình huống hay mẫu câu khác nhau. -Đối với học sinh khá giỏi cần phải có bài tập nâng cao nhằm gây hứng thú cho học sinh và tạo điều kiện cho các em tư duy, sáng tạo, tạo điều kiện cho các em vừa ôn lại kiến thức cũ mà lại tiếp nhận, phát hiện ra kiến thức mới một cách khoa học. 14 *Còn đối với học sinh yếu kém, thầy cần phải có biện pháp cụ thể, những bài tập vừa với khả năng của các em, tạo điều kiện cho các em tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, luôn luôn động viên các em. -Tuy nhiên đối với một số học sinh có tính chai lỳ, chán học, đã nhắc nhở mà không chịu cố gắng thì giáo viên cần phải có biện pháp cứng rắn, tuy nhiên đây chỉ là biện pháp cuối cùng. -Tôi đã giao tiếp với học sinh với một phong cách điềm đạm, không cứng nhắc, tuỳ theo từng đối tượng học sinh để có phương pháp giảng dạy cần thiết. -Tôi đã yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm, hoặc theo từng cặp. -Về thời gian trên lớp, tôi đã cố gắng chia từng phần thật hợp lý cũng như dùng giáo cụ trực quan để thu hút học sinh vào bài và ghi nhớ được lâu hơn. Vận dụng phương pháp mới, tôi đã dùng các thủ thuật trong từng phần cho hợp lý, hay cho học sinh chơi trò chơi bổ trợ nâng cao kiến thức, kết hợp học mà chơi, chơi mà học. -Tôi đã làm phiếu bài tập cho các em học sinh làm việc. Điều quan trọng là giáo viên phải nắm vững mục đích của tiết học. Tóm lại Quản lý tốt một giờ học Tiếng Anh đối với học sinh khối 6 là đã thành công được 80%, vì vậy thực chất ra quản lý tốt học sinh cũng chính là phương pháp thu hút lôi cuốn tất cả học sinh vào bài giảng của mình bằng các hoạt động của thầy tạo điều kiện cho học sinh được làm việc nhiều. Đối với trò. -Yêu cầu học sinh học bài cũ trước khi đến lớp, để liên kết kiến thức cũ với kiến thức mới. 15 -Học sinh trong lớp phải trật tự và làm theo yêu cầu của các thầy cô giáo -Học sinh cần phải chủ động học tập, không phải để các thầy cô giáo nhắc mới học. -Học tiếng Anh là học ngôn ngữ vì vậy yêu cầu các em học sinh phải kiên trì nhẫn nại, chịu khó rèn luyện từng bước, không vội vàng, không sơ sài, có gì thắc mắc phải hỏi giáo viên ngay. -Yêu cầu học sinh học đến đâu phải học thật kỹ đến đó, không học qua loa và phải dành nhiều thời gian cho việc học ở nhà. -Học sinh phải xác định mục đích chính của bài học và phát triển kỹ năng giao tiếp là chính, vì vậy phải mạnh dạn giao tiếp, bỏ mặc cảm nói trước đông người khi giao tiếp. -Đặc biệt các em phải nhận thức được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. Trong tiết học. Để tiếp thu được đơn vị kiến thức cần nắm, thì sự quản lý lớp học đóng vai trò rất quan trọng, mọi hoạt động của học sinh và giáo viên đều nhằm mục đích cuối cùng là thực hành giao tiếp tốt, vì vậy chúng ta phải chú ý đến mọi tiến trình trong cách thiết kế bài giảng trong một tiết học. -Phần đầu tiên vào lớp, giáo viên cần có những câu hỏi và tình huống nhằm tạo không khí dễ chịu, vui vẻ cho học sinh, làm cho các em yêu thích tiết học đó. -Phần kiểm tra bài cũ giáo viên cần nắm vững nguyên tắc ôn tập bài cũ, những yêu cầu bài cũ đó có liên quan đến kiến thức bài mới, tạo cho các em vừa ôn bài cũ, vừa có một bước đệm để sang bài mới tự tin hơn. -Phần dạy ngữ liệu chúng ta nên lưu ý đặc biệt đến giáo cụ trực quan, vì nó là phần không thể thiếu được trong một bài dạy tiếng Anh. Ví dụ 16 như tranh, ảnh, đài, băng, sách.... học sinh rất chăm chú vào tranh ảnh và vật liệu tạo điều kiện cho các em liên tưởng đến kiến thức bài học. Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng trong lớp 100% học sinh đều phải được thực hành. Như vậy, giáo viên cần gọi nhiều học sinh tham gia trả lời hệ thống câu hỏi có tính chất suy luận tạo điều kiện cho tất cả học sinh làm việc. -Đối với học sinh yếu kém, thầy cô có thể hỏi những câu hỏi mang tính chất gợi ý, để các em có cơ hội trả lời. Dần dần học sinh yếu kém sẽ tự tin hơn trước lớp, còn học sinh giỏi sẽ phát huy năng lực của mình hơn. -Sau khi học sinh luyện tập, tôi có thể hỏi xem học sinh đã sử dụng kiến thức nào ? Cuối cùng tôi đưa ra câu trả lời đúng nhất. Tiếng Anh có rất nhiều âm gió vì vậy tôi đã chú ý sửa cho học sinh về cách phát âm, cách lên giọng, xuống giọng nhằm thể hiện thái độ giao tiếp tốt hơn. -Giáo viên cần nhấn mạnh những điểm mà học sinh vấp phải trước lớp trong tiết học, giáo viên không nên đua ra nhiều kiến thức quá cao, vấn đề là giáo viên biết cách lựa chọ những bài tập, để thông qua đó học sinh nắm vững được vừa lượng kiến thức trong tiết học, không đi trước chương trình. -Khi luyện tập tôi đã dành nhiều thời gian cho học sinh làm việc, cho học sinh áp dụng với bản thân để giao tiếp theo từng cặp hay phân nhóm. -Cho học sinh nhận xét bài làm của các bạn, sau đó tôi mới tóm lại vấn đề. C- KẾT LUẬN. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ. 1- Những kết quả đạt được. 17 Sau một năm thử nghiệm tại lớp 6A do tôi phụ trách môn Anh Văn, kỳ thi cuối năm do Sở giáo dục - đào tạo Thanh Hoá ra đề đã đạt kết quả cao 100% các em đạt điểm trung bình trở lên, trong đó có 40% khá giỏi, 50% trung bình khá và 10 % trung bình, 100% các em có thể giao tiếp những câu đơn giản trong chương trình học lớp 6. Theo tôi nghĩ, thực chất quá trình dạy học là quá trình tự điều chỉnh liên tục và thường xuyên để ngày càng có những tiết dạy tốt hơn, hiệu quả hơn, không có điểm dừng mà chỉ có thực tế giảng dạy mới kiểm nghiệm được phương pháp chuẩn xác nhất của giáo dục. Thông qua các tiết dạy, tôi đều thấy phương pháp thu hút học sinh vào bài càng tốt thì học sinh càng tiếp thu bài tốt hơn. Muốn đạt được điều đó thì giáo viên cần phải quản lý lớp học tốt và có những phương pháp hay cũng như các thủ thuật khi lên lớp để giúp các em học sinh lớp 6 có ý thức học tốt hơn. Học sinh lớp 6 là đối tượng còn hiếu động, ham chơi, chưa có ý thức tự giác trong học tập và các em chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của môn Tiếng Anh. Sau nhiều tiết dạy ở lớp 6, tôi nhận thấy Bước đầu đã đạt kết quả khả quan, học sinh đã có ý thức học tập và tiến bộ. Theo tôi đây là bước đầu thành công trong giờ dạy Tiếng Anh lớp 6, tuy nhiên không thể thiếu sót khi trình bày, bản thân tôi còn phải học hỏi các bạn đồng nghiệp và tự điều chỉnh nhiều trong quá trình dạy học. Rất mong sự giúp đỡ chân thành của các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn . Tôi hy vọng rằng với ý kiến và cách thu hút học sinh vào bài mà tôi đã đưa ra sẽ là phương pháp khoa học để giúp học sinh lớp 6 học tiếng Anh tốt hơn và đạt kết quả cao hơn. 18 2- Những kiến nghị và đề xuất. -Qua đây, tôi xin được đề xuất với Sở giáo dục- Đào tạo, phòng giáo dục huyện những nguyện vọng nhỏ sau đây. a. Những sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp chúng tôi ở các đơn vị khác đã được phòng giáo dục, sở giáo dục lựa chọn, cần phổ biến rộng rãi trong ngành để chúng tôi có điều kiện học tập, đồng thời phát huy được sáng kiến đó b. Dạy Tiếng Anh cần rất nhiều giáo cụ trực quan cũng như đồ dùng dạy và học, vậy kính mong nhà trường, phòng giáo dục, sở giáo dục và các cơ quan ban ngành có liên quan tạo điều kiện về cơ sở vật chất, cung cấp nhiều tài liệu tham khảo và sách nâng cao để việc dạy và học Tiếng Anh ngày càng tốt hơn c. Tiếng Anh là môn học khó vì vậy monng sở giáo dục, các ban ngành có liên quan tạo điều kiện đưa môn học Tiếng Anh vào trong trường tiểu học ở các vùng nông thôn giống như ở thành phố để các em có điều kiện tiếp xúc với Tiếng Anh từ lớp 1. Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh trong nhà trường, thiết nghĩ là không dễ. Do đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải không ngừng tìm tòi, nghiên cứu phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh của mình để tiết học đạt hiệu quả cao. Là một giáo viên trẻ mới ra trường nên tôi chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, vì thế đề tài này của tôi còn nhiều thiếu xót, mong các bạn đồng nghiệp đóng góp thêm ý kiến để cùng nhau xây dựng nền giáo dục có chất lượng. Xin chân thành cảm ơn ! Thanh Hoá, ngày 01 tháng 03 năm 2006. MỤC LỤC 19 A- PHẦN MỞ ĐẦU. 1- Lý do chọn đề tài 2- Mục đích của đề tài 3- Đối tượng nghiên cứu B- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1-Cơ sở lý luận 2-Thực tiễn 73- Bài 12-phần A what are you doing? 85- Bài 14 Making plan 3- Những giải pháp với thầy với trò tiết học LUẬN kết quả đạt được đề xuất - kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO plans grade 6 -Trịnh Thị Phương Thảonhà XBGD kế bài giảng Tiếng Anh 6-Nguyễn Minh Hoài nhà XBĐHSP practical English Grammar Thomson and effect patricia Ackert Grammar in use Raymond Murphy nhà XBGD Training course for teacher 20 Page 2 YOMEDIA Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước của chúng ta ngày nay, mọi người ai ai cũng muốn góp phần mình vào sự nghiệp đổi mới đất nước, đưa đất nước hoà nhập với thế giới trên mọi lĩnh vực Văn hoá- Kinh tế- Chính trị- Thể thao... 28-11-2009 1650 219 Download Giấy phép Mạng Xã Hội số 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 All rights reserved.
Đăng bởi Admin vào lúc 1121 - 28/01/2021 NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI NÓI TIẾNG ANH! Con số khổng lồ trên đã mô tả chính xác nhất xu thế toàn cầu hóa của của Anh ngữ! Tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh là điều không phải bàn cãi. Và để chuẩn bị cho con em mình một hành trang vững vàng cho tương lai, rất nhiều bậc phụ huynh đã và đang chú trọng đầu tư cho các em đi học Tiếng Anh cả ở trường và tại các trung tâm. Nhưng liệu trẻ đã được học Tiếng Anh đúng cách? Và học Tiếng Anh như thế nào mới là đúng cách? Tiếng Anh và Tiếng Việt đều là ngôn ngữ. Vậy nên quy trình học Tiếng Anh cũng không khác gì so với học Tiếng Việt. Các em nhỏ cũng đều phải tuần tự trải qua các bước “NGHE” thụ động rồi bắt chước, sau đó mới có thể “NÓI” – giao tiếp, cuối cùng mới là “ĐỌC” và “VIẾT”. Tuy nhiên có một thực tế rằng trẻ em Việt Nam đang học Tiếng Anh theo một quy trình bị đảo lộn theo trình tự VIẾT – ĐỌC – NGHE – NÓI. Các em học Tiếng Anh theo kiểu dập khuôn và vô cùng nhàm chán. NGHE và NÓI hoàn toàn không được chú trọng, Các em phải cắm đầu chép từ vựng và các công thức ngữ pháp rồi nhồi hết vào đầu để đạt điểm cao cho bài thi cuối kỳ. Cách học này chắc chắn sẽ không thể giúp trẻ giao tiếp Tiếng Anh tốt, mà trái lại nó sẽ hình thành thói quen ngại giao tiếp, phát âm sai và càng lớn lên thì trẻ càng khó sửa! Rõ ràng, để giao tiếp giỏi Tiếng Anh hay bất kỳ một ngoại ngữ nào, đều phải tuân theo bản năng tiếp thu ngôn ngữ của con người. Bắt đầu là NGHE – NÓI rồi mới đến ĐỌC – VIẾT. Ngoài ra học Tiếng Anh cũng có độ tuổi “Vàng” của nó, các nhà nghiên cứu của Anh đã chứng minh bằng khảo sát thực nghiệm trên đứa trẻ và nhận thấy trẻ học ngôn ngữ thứ hai trong khoảng thời gian từ 4 đến trước 15 tuổi có nhiều khả năng giao tiếp trôi chảy như người bản xứ hơn vì ở độ tuổi này trẻ có khả năng bắt chước rất nhanh, bắt đầu hình thành tư duy và có rất nhiều thời gian cho việc luyện tập giao tiếp.
Thực trạng là gì? Thực trạng tiếng Anh là gì? Tất cả những những băn khoăn này sẽ được TBT Việt Nam làm rõ qua nội dung bài viết sau đây. Mời Quý vị theo dõi Thực trạng là gì? Thực trạng là những phản ánh đúng tình trạng thực tế, trạng thái đã, đang xảy ra của sự vật, sự việc, con người tại một khoảng thời gian và không gian nhất định trong thực tế. Đang xem Thực trạng trong tiếng anh là gì Thông thường khi nhắc đến thực trạng người ta hay nói đến những điều không tốt, ám chỉ những điều tiêu cực nhiều hơn so với tích cực. Ví dụ + Thực trạng quan liêu, tham nhũng trong những năm gần đây của Việt nam xảy ra rất nhiều. + Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện đang là thực trạng dẫn đến việc bầu không khí không còn trong lành như trước. Thực trạng tiếng Anh là gì? Thực trạng tiếng Anh là Reality/ real situation/ real state of affairs. Xem thêm Cost Per Lead Là Gì ? Vai Trò Của Cpl Hiện Nay Ra Sao? Cost Per Lead Ngoài ra thực trạng còn được dịch sang tiếng Anh như sau Reality is a true reflection of the actual, actual, happening state of things, events and people at a given time and space in reality. Một số từ tương ứng với thực trạng tiếng Anh là gì? Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày thì nhiều người thay vì sử dụng cụm từ thực trạng tiếng Anh thì mọi người có thể sử dụng các từ cũng có nghĩa tương ứng, liên quan khi nhắc đến thực trạng như + Condition/ situation/ state/ status Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là tình trạng + Actual/ reality/ fact Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là thực tế + Situation/ juncture Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là tình hình + Nowadays Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Hiện nay + Status quo Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Hiện trạng + Truth Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Sự thật + State Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là trạng thái + Actually Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là thực ra. Ví dụ đoạn văn có sử dụng từ thực trạng tiếng Anh viết như thế nào? Dưới đây sẽ là một số ví dụ về các đoạn văn có sử dụng từ thực trạng tiếng Anh để mọi người tham khảo như; Ví dụ 1 At middle and high schools, there is an alarming risk that the Ministry of Education must take timely measures to overcome this situation. The first is the prevalence of school violence, the situation of students gathering at school gates intercepting other students. Secondly, the situation of students riding electric bicycles in zigzag traffic without a helmet. Được dịch sang tiếng Việt như sau Tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông xảy ra một nguy cơ đáng báo động cần bộ giáo dục phải có biện pháp kịp thời để khắc phục thực trạng này. Thứ nhất là thực trạng phổ biến bạo lực học đường, tình trạng các học sinh tụ tập ở cổng trường chặn đánh các học sinh khác. Thứ hai thực trạng học sinh đi xe đạp điện tham gia giao thông lạng lách không đội mũ bảo hiểm. Xem thêm Patriot Là Gì – Nghĩa Của Từ Patriots Trong Tiếng Việt Ví dụ 2 Situation of environmental pollution is happening more and more, especially in big cities and provinces, concentrated in industrial parks and developed urban areas such as Hanoi, Ho Chi Minh, Binh Duong, Nha Trang … Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Thực trạng ô nhiễm môi trường xảy ra ngày càng nhiều, nhất là ở các tỉnh thành phố lớn, tập trung nhiều khu công nghiệp, đô thị phát triển như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Nha Trang… Ví dụ 3 Reality the complicated situation of the covit19 epidemic, every citizen needs to pay attention to protect their health by avoiding crowding in public places, wearing masks when going out and using hand washing water regularly. Được dịch sang tiếng Việt nghĩa là Trước thực trạng dịch bệnh covit19 diễn ra phức tạp, mỗi người dân cần chú ý tự bảo vệ sức khỏe của mình bằng việc tránh tụ tập đông người các nơi cộng cộng, thực hiện đeo khẩu trang khi ra ngoài và sử dụng nước rửa tay thường xuyên.
Giáo dụcHọc tiếng Anh Thứ sáu, 28/10/2016, 1230 GMT+7 "Thực trạng học tiếng Anh ở Việt Nam hiện nay rối như bòng bong. Sách giáo khoa lỗi thời, trình độ giáo viên và cách thức thi cử dựa trên đọc viết là 3 vấn đề lớn cần giải quyết", thầy giáo tiếng Anh Nguyễn Xuân Quang nêu quan điểm. Nếu cách đây 20-30 năm, thứ duy nhất chúng ta nhập khẩu về để dạy tiếng Anh là sách và một số băng đĩa, thì giờ đây trẻ em được tiếp xúc với báo đài, Internet, TV... hoàn toàn bằng tiếng Anh. Cách dạy và học tiếng Anh cần được đổi mới. Bố tôi dành cả đời để đi dạy tiếng Anh. Tôi cũng có thể được coi là "nòi" tiếng Anh khi 6 tuổi đã bập bẹ "a book, a ball, a box, a cup", một phần nhờ may mắn khi bố tôi là một trong những người đầu tiên sau chiến tranh được cử đi học tại một nước tư bản. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, có được cuốn sách tiếng Anh cho ra hồn là "khá giả" lắm rồi. Chương trình học hồi đó dựa chủ yếu vào ngữ pháp cũng là dễ hiểu. Vì không dạy ngữ pháp thì có gì mà dạy, bản thân giáo viên tiếng Anh cũng không thể tiếp xúc với cái gọi là tiếng Anh chuẩn. Hệ thống đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, từ thời điểm đó, hoặc thậm chí vài chục năm trước đó, dựa chủ yếu vào học ngữ pháp, có lẽ giống như mục tiêu "xóa mù" tiếng Anh, hơn là để sử dụng và hội nhập. Mọi thứ đang thay đổi chóng mặt. Nhưng dường như việc dạy tiếng Anh trong giáo dục Việt Nam đang lễ mễ chạy đằng sau mà vẫn bị hụt hơi. Không nói giáo viên tiểu học, bản thân giảng viên tiếng Anh đại học cũng ít người có khả năng phát âm chuẩn và hay. Ngay ở những trường danh tiếng có lượng sinh viên đạt IELTS hay 100 TOEFL iBT trở lên tương đối phổ biến, chất lượng giáo viên tiếng Anh cũng luôn là dấu hỏi lớn. Nếu chuẩn hóa chất lượng giáo viên thông qua điểm TOEFL iBT hoặc IELTS, tôi tin chắc số lượng không nhỏ giáo viên đại học có điểm thấp, thậm chí rất thấp. Tất nhiên, một tỷ lệ không nhỏ giáo viên cũng sẽ có điểm cao và rất cao. Dạy và học tiếng Anh cần có sự đột phá. Do đội ngũ giáo viên tiếng Anh thiếu cả về chất và lượng, việc đổi mới chương trình là vấn đề nan giải với hệ thống đào tạo Việt Nam. Lý do là giáo viên không đủ chất lượng thì chương trình tốt cũng khó có thể vận hành hiệu quả. Thậm chí, nếu chương trình giáo dục có thay đổi theo hướng đào tạo phát âm thay vì ngữ pháp đi chăng nữa, thì phần không nhỏ các thầy cô cũng không đủ trình độ và bản lĩnh để đánh giá chính xác học viên. Thực tế là với ngôn ngữ, càng bắt đầu sớm thì khả năng hấp thụ càng tốt. Ở cùng điểm xuất phát, học sinh sẽ học tiếng Anh nhanh hơn giáo viên. Liệu các thầy cô có bối rối nếu học viên còn phát âm... chuẩn hơn cô? Một chi tiết nhỏ mà không nhỏ, đó là rất ít giáo viên ở Việt Nam chịu thừa nhận mình kém hơn học sinh/sinh viên của mình, ít ra ở lĩnh vực họ giảng dạy. Một rào cản nữa cho việc chuyển hướng đào tạo tiếng Anh, đó là đánh giá chất lượng học sinh. Với lượng học sinh khổng lồ như hiện nay, việc giảng dạy chú trọng phát âm và giao tiếp thực tiễn thay vì ngữ pháp sẽ đặt ra thử thách lớn cho toàn hệ thống đánh giá bằng cách nào. Với nguồn lực mỏng như hiện tại, số lượng giáo viên đủ chuyên môn, năng lực để đánh giá khả năng phát âm/giao tiếp của học viên nắm phần thiểu số tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, việc đánh giá học viên qua khả năng phát âm/giao tiếp là khó khăn hơn rất nhiều. Hệ thống của chúng ta ở thì hiện tại phù hợp hơn cho việc ra đề trên giấy, chấm trên giấy. Với đáp án có sẵn, thậm chí một người chẳng biết gì về tiếng Anh cũng có thể chấm điểm sinh viên/học sinh thông qua bài trắc nghiệm tiếng Anh... Như thế dễ hơn rất nhiều. Trước thực tế trên, thay đổi là tất yếu. Bởi nếu hệ thống giáo dục không thay đổi, thị trường sẽ tự làm việc đó. Học sinh, sinh viên sẽ lãng phí rất nhiều thời gian học tiếng Anh ở nhà trường, nhưng không sử dụng được. Trong khi đó, một bộ phận lớn phải ra ngoài để học lại tiếng Anh nhằm thích nghi với yêu cầu của thị trường. Đây là sự lãng phí nguồn lực vô cùng lớn của xã hội và cần được thay đổi. Thay đổi đầu tiên, thiết nghĩ, phải bắt đầu từ bản thân giáo viên tiếng Anh. Nếu họ phát âm chuẩn, giao tiếp tốt, họ sẽ đào tạo được học sinh, sinh viên phát âm tốt và giao tiếp được. Để làm được điều này, cần chặt chẽ hơn nữa về yêu cầu chuẩn giáo viên tiếng Anh ít nhất tương đương 90 TOEFL iBT hoặc IELTS, đi kèm với lộ trình và hỗ trợ cần thiết từ phía nhà trường và Bộ Giáo dục. Sau đó, việc giảng dạy tiếng Anh với nền tảng là phát âm nên được thực hiện từng bước ở các trường điểm tại các khu vực thành phố lớn, sau đó lan tỏa ra toàn hệ thống, phối hợp cùng với việc nâng cao chất lượng giáo viên tại các trường đại học, trung học và tiểu học. Tiếp theo, dựa trên các giáo trình tại các trường trọng điểm, kết hợp với các trung tâm tiếng Anh có kinh nghiệm tại các thành phố lớn, Bộ Giáo dục có thể đưa ra chương trình khung, lộ trình học và phương pháp đánh giá, sau đó thực hiện thí điểm tại các thành phố lớn. Nguyễn Xuân Quang
Trước khi đi vào chi tiết, người viết phải thừa nhận rằng ban đầu đã có cảm giác hơi rối khi đọc nghiên cứu “English in Vietnam” Anh ngữ tại Việt Nam. Tran Phuong Minh, tác giả chính của nghiên cứu, đã dành một thời lượng đáng kể ở phần mở đầu để giới thiệu Việt Nam và lịch sử ngàn năm chống Bắc thuộc của đất nước. Tác giả thậm chí còn đề cập cụ thể cả cuộc chiến giành độc lập đầu tiên của Việt Nam khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán. Đó đều là những thông tin có phần khá… xa lạ cho một nghiên cứu về Anh ngữ tại Việt Nam. Song khi nhìn thấy tấm bản đồ trong đó ghi nhận đầy đủ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, người viết nhận ra mục tiêu lớn hơn hay ở góc độ nào đó là cao cả hơn của phần mở đầu. Tác giả có lẽ muốn dùng cơ hội đăng tải nghiên cứu của mình để phản kháng lại những bản đồ “đường lưỡi bò” được các học giả Trung Quốc tuyên truyền tràn lan rầm rộ. Chỉ tính riêng điểm này, chưa bàn đến nội dung của nghiên cứu, người viết đã vô cùng trân trọng tinh thần của tác giả Minh. Tuy nhiên, không phải không có sự kết nối giữa các thảo luận trên với sự tồn tại của tiếng Anh ở Việt Nam đương đại. Tiếng Trung từng là thứ ngôn ngữ tinh hoa thống trị hệ thống học thuật, quản trị hành chính và văn thơ Việt Nam suốt một ngàn năm. Vậy vai trò của tiếng Anh là gì, và nó bắt rễ tại Việt Nam như thế nào hiện nay? Anh ngữ và các ngoại ngữ có ảnh hưởng trước đó tại Việt Nam Nghiên cứu bắt đầu với việc hệ thống hóa các ngoại ngữ trong chiều dài lịch sử Việt Nam. Theo phân tích của Minh, các ngoại ngữ được sử dụng phổ biến tại Việt Nam từ trước đến nay đều không nằm ngoài ảnh hưởng của một thế lực ngoại bang thống trị hoàn toàn đất nước. Tiếng Hán là kết quả của hàng ngàn năm người phương Bắc thống trị Việt Nam về mặt quân sự, tư tưởng và văn hóa. Nhưng nó cũng nhanh chóng bị thay thế ngay khi giới tinh hoa Việt Nam có thời gian phát triển riêng ngôn ngữ của mình tiếng Nôm và tiếp cận với các loại ngôn ngữ khác, giúp họ thoát được cái rễ văn hóa Trung Hoa không mong muốn. Một ông đồ viết thư pháp tiếng Hán tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ảnh Ngọc Thắng/ Thanh Niên. Tiếng Pháp, giống như thế, tồn tại chủ yếu nhờ vào sự áp đặt của chính quyền thực dân, và luôn bị đặt vào tình thế phải cạnh tranh với thứ ngôn ngữ Latin mà chính các nhà truyền giáo của họ khởi dựng. Ngay sau năm 1954, tiếng Pháp nhanh chóng mất đi sự hấp dẫn của mình. Tương tự, tại miền Bắc từ năm 1954 cho đến sau năm 1975, giáo dục tiếng Trung và tiếng Nga được ưu ái do hai quốc gia anh cả này viện trợ dồi dào cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong suốt và sau chiến tranh. Nhưng khi các khó khăn kinh tế giai đoạn Chiến tranh lạnh lộ rõ, các quốc gia xã hội chủ nghĩa buộc phải thân ai nấy lo, cả tiếng Nga lẫn tiếng Trung đều “rớt đài” khỏi đấu trường ngoại ngữ Việt Nam. Tiếng Anh, với tư cách là ngôn ngữ kinh tế toàn cầu, là thứ ngôn ngữ bắt rễ tại quốc gia chúng ta tự nhiên hơn cả, theo cách tiếp cận của tác giả. Thú vị hơn, khác với các loại ngôn ngữ trước đó du nhập vào Việt Nam theo con đường “chính chủ”, tiếng Anh đi cùng các nhà đầu tư Đài Loan, Singapore, Hong Kong và Liên minh châu Âu vào Việt Nam, với tư cách là “lingua franca” ngôn ngữ phổ thông thứ hai của những nhóm này. Các bậc phụ huynh Việt Nam, kỳ vọng rằng con em mình có chỗ đứng trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, là những người đầu tiên khởi động phong trào học tiếng Anh tại Việt Nam. Tác giả ghi nhận, phải đến năm 1993, Hội đồng Anh British Council, nhánh văn hóa của Đại sứ quán Vương quốc Anh tại Việt Nam, mới bắt đầu chương trình English Language Training Đào tạo tiếng Anh cho các nhân viên công quyền tại Việt Nam. Và đến tận năm 2002, các chương trình đào tạo tiếng Anh chính thức, “chính chủ” của người Anh mới được ra mắt công chúng. Tương tự, “nhà truyền bá” tiếng Anh quan trọng khác là Hoa Kỳ cũng rất chậm chân trong cuộc chơi. American Center Trung tâm Hoa Kỳ ở cả hai thành phố lớn Bắc và Nam của đất nước có vai trò khá quan trọng trong giao lưu và phổ biến văn hóa Mỹ, nhưng có vẻ không năng động lắm trong các hoạt động phổ biến ngôn ngữ Anh. Phải đến tận năm 2016, Peace Corp đã được Luật Khoa đề cập ở đây mới được giới thiệu và hoạt động tại Việt Nam nhân sự kiện chuyến thăm chính thức của Tổng thống Obama. Tuy nhiên, Peace Corp tập trung vào các hoạt động giao lưu văn hóa – khoa học – xã hội nhiều hơn là phổ biến ngôn ngữ và giới thiệu những biện pháp quy chuẩn hóa chúng, dù họ có các chương trình giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em. Đào tạo Anh ngữ tại Việt Nam vừa thiếu định hướng, vừa thiếu đa dạng? Tiêu đề phụ là của người viết tự đặt và không chắc tác giả có đồng ý với kiểu giật tiêu đề này hay không. Tuy nhiên, với các thông tin được cung cấp trong nghiên cứu, có nhiều lý do để cảm thấy thất vọng về tình trạng đào tạo thứ ngôn ngữ toàn cầu này suốt 30 năm qua. Trước tiên, dù nguồn gốc du nhập Anh ngữ của Việt Nam rất đa dạng với sự xuất hiện của Anh ngữ pha trộn phương ngữ Singapore, Hong Kong, Đài Loan hay châu Âu, chúng gần như không có biểu hiện hay ảnh hưởng gì đến việc đa dạng hóa phương pháp đào tạo, ngữ âm hay từ vựng tiếng Anh tại Việt Nam. Mặc khác, cân nhắc mô hình đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, hiệu quả có thể cho là gần như bằng không. Chương trình học tiếng Anh liên kết tại một trường tiểu học ở Hà Nội. Ảnh Thu Anh/ Kinh Tế Đô Thị. Các nghiên cứu của tác giả Minh vào bên trong hệ thống đào tạo cho thấy ngoại ngữ, mà đặc biệt là tiếng Anh, đã được giới thiệu và trở thành một môn học bắt buộc của chương trình đào tạo phổ thông từ năm lớp ba. Để tốt nghiệp cấp hai, các học sinh lớp chín đều phải trải qua kỳ thi quốc gia mà trong đó tiếng Anh chiếm 90% lựa chọn ngoại ngữ của học sinh Việt Nam là một môn thi bắt buộc. Tương tự, kỳ thi trung học phổ thông quốc gia cũng là nơi mà các học sinh buộc phải vượt qua môn tiếng Anh. Tuy nhiên, gần 12 năm đào tạo Anh ngữ dường như chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, không có bất kỳ tác động nào đáng kể lên năng lực tiếng Anh của học sinh sinh viên. Tác giả Minh dẫn chứng, vào năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 1400/QD-TTg nhằm phê duyệt Chương trình Ngoại ngữ Quốc gia hướng tới mục tiêu 2020 National Foreign Language Program – NFLP 2020. Trong đó, ngân sách lên đến 500 triệu USD được sử dụng nhằm hướng đến kết quả là tất cả học sinh rời hệ thống giáo dục phổ thông đều có một kiến thức tốt về Anh ngữ trong lý thuyết lẫn thực hành. Tuy nhiên, hơn 85% nguồn tài chính trên được dùng để… “đào tạo lại” các giảng viên Anh ngữ trong hệ thống giáo dục phổ thông vốn bị cho là có năng lực dưới chuẩn trung bình. Trong khi đó, các nỗ lực xem xét lại chương trình đào tạo, quy chuẩn hóa và đa dạng hóa phương pháp giảng dạy ngoại ngữ, tăng cường kết hợp… lại nhận được rất ít sự chú ý. Quan trọng hơn, việc áp đặt 400 giờ đào tạo nâng cao cho các giáo viên Anh ngữ, vốn vẫn phải song song hoàn thành các nghĩa vụ giảng dạy thông thường, càng khiến cho nỗ lực chấn chỉnh chương trình đào tạo ngoại ngữ tại Việt Nam không đạt được hiệu quả gì đáng kể. Như dự đoán, trong năm 2013, các bài kiểm tra năng lực cho thấy vẫn có tới giáo viên Anh ngữ dưới chuẩn yêu cầu. Tình hình không hề thay đổi trong bài kiểm tra hai năm sau đó. Đến năm 2018, theo các đánh giá khách quan từ những học giả Việt Nam, NFLP 2020 chính thức phá sản. Chính phủ Việt Nam hiện nay đã gia hạn mục tiêu từ năm 2020 sang năm 2025. Tương tác và thái độ đối với Anh ngữ tại Việt Nam Một điểm trừ của nghiên cứu theo người viết, là tác giả chỉ dừng lại ở mức độ quan sát và cảm nhận, hơn là có một phương pháp nghiên cứu sáng tạo và hiệu quả hơn để đánh giá việc sử dụng Anh ngữ trong các hoạt động đời sống thường ngày tại Việt Nam. Tuy nhiên, những đánh giá – tổng hợp của Minh cũng đáng xem xét và cân nhắc về thực trạng áp dụng Anh ngữ tại Việt Nam. Các bạn trẻ tại Việt Nam ở các thành phố lớn chủ động giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài. Ảnh Thanh Niên. Ví dụ, Minh cảm thấy rằng giới trẻ Việt Nam tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đủ mức độ thông thạo để vượt qua các cuộc trò chuyện với du khách nước ngoài liên quan đến hoạt động mua bán lẻ và dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh cũng được xem là mang lại cho người sử dụng địa vị xã hội cao hơn. Vì vậy, thanh thiếu niên Việt Nam thường chuyển đổi qua lại giữa việc sử dụng tiếng Anh và tiếng Việt trên mạng xã hội. Liên quan đến vốn từ có gốc Anh ngữ, từ giai đoạn trước 1975, “mít-tinh” meeting, “ti-vi” TV hay “top” top đều đã được sử dụng như một phần ngôn ngữ bản địa. Cho đến nay, nghiên cứu chỉ ra phải có đến gần 800 từ tiếng Anh xuất hiện thường xuyên trên báo chí địa phương. “Internet”, “hot boy/girl”, “shop”, “fan”, “fast food”… phổ biến đến mức chúng hoàn toàn thay thế các từ tiếng Việt tương ứng. Tuy nhiên, thực trạng hiện tại cho thấy mô hình đào tạo không hiệu quả, việc sử dụng Anh ngữ chưa rộng rãi mà theo người viết có thể dùng cụm “chưa được bình dân hóa”. Ngoài ra, tư duy ưa thích sử dụng tiếng Anh “chính chủ”, “cao cấp” dẫn đến việc người Việt Nam kể cả các giáo viên rất khó tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ đại chúng thứ hai English as Lingua Franca – ELF. Rất nhiều người Việt chưa chấp nhận sự khác biệt về phương ngữ, ngữ âm, từ vựng hay văn hóa tiếng Anh nằm ngoài hai vùng “rốn” là Anh hay Hoa Kỳ. Thay vào đó, các giáo viên gò học sinh vào việc phát âm đúng từng câu chữ theo chuẩn Anh hoặc chuẩn Mỹ, trong khi bản thân các học sinh cũng khinh thường các phiên bản tiếng Anh “không chuẩn”. Việc giới thiệu các phiên bản khác của tiếng Anh như Singlish tiếng Anh của người Singapore hay Indian-English tiếng Anh của người Ấn Độ… đều được xem là những việc không nên, có thể làm hỏng nền tảng ngôn ngữ và làm “ô nhiễm” môi trường đào tạo Anh ngữ. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, định kiến này dẫn đến cách hiểu sai về tiếng Anh, không chấp nhận sự thật rằng nó là một ngôn ngữ toàn cầu với vô số biến thể khác nhau. Đây là một trong những rào cản của việc phổ biến Anh ngữ và gắn kết nó với văn hóa đại chúng Việt Nam.
thực trạng tiếng anh ở việt nam